Độ brix là gì? Các công bố khoa học về Độ brix

Độ brix là một đơn vị đo lường để xác định nồng độ đường trong một dung dịch, thường được sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm và nông nghiệp. Độ brix được...

Độ brix là một đơn vị đo lường để xác định nồng độ đường trong một dung dịch, thường được sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm và nông nghiệp. Độ brix được tính dựa trên phần trăm hàm lượng đường trong một dung dịch, và thường được sử dụng để đo nồng độ đường trong trái cây, nước ép trái cây, mật ong, và các sản phẩm thực phẩm khác. Đo brix thường được thực hiện bằng cách sử dụng một refractometer để đo chỉ số lục giác hoặc chỉ số quang học của dung dịch, từ đó suy ra độ brix của dung dịch đó. Độ brix thường được sử dụng để xác định mức ngọt của sản phẩm và cũng có thể sử dụng để ước tính nồng độ của các chất khác, như muối và protein.
Độ brix được đo bằng cách sử dụng một thiết bị gọi là refractometer. Refractometer sẽ đo chỉ số lục giác hoặc chỉ số quang học của dung dịch và dựa vào đó để tính toán độ brix.

Độ brix thường được sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm để kiểm tra chất lượng và nồng độ đường trong sản phẩm. Ví dụ, trong sản xuất rượu vang, độ brix của nho thường được kiểm tra để xác định thời điểm thu hoạch phù hợp. Trong sản xuất mật ong, độ brix được sử dụng để xác định nồng độ đường tự nhiên trong mật ong và đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Ngoài ra, độ brix cũng thường được sử dụng trong ngành nông nghiệp để đo lượng đường trong các loại trái cây và giúp nông dân xác định thời điểm thu hoạch phù hợp.

Độ brix cũng có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất các loại đồ uống có ga như nước ngọt và bia để xác định nồng độ đường và điều chỉnh độ ngọt của sản phẩm.
Ngoài việc đo độ ngọt trong các sản phẩm thực phẩm và nông sản, độ brix cũng được sử dụng để kiểm tra chất lượng và chứng nhận trong ngành công nghiệp hóa phẩm và dược phẩm. Đặc biệt, trong sản xuất dược phẩm, độ brix được sử dụng để kiểm tra chất lượng và đảm bảo rằng các dung dịch có chứa đường hoặc các chất khác có nồng độ đúng như quy định.

Ngoài ra, độ brix cũng có thể được sử dụng trong quá trình kiểm tra và chuẩn đoán trong ngành y học, đặc biệt trong lĩnh vực nội tiết học khi cần đo nồng độ đường trong máu và nước tiểu.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, độ brix còn được sử dụng như một chỉ số để xác định độ chín của trái cây và quả cũng như để dự đoán phẩm chất và thời điểm thu hoạch phù hợp.

Ngoài ra, độ brix cũng có thể được sử dụng trong quá trình kiểm tra nước biển để xác định hàm lượng muối, và trong các ứng dụng công nghiệp khác như trong quá trình sản xuất giấy, xử lý nước và công nghiệp hóa chất.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "độ brix":

ẢNH HƯỞNG CỦA BÓN PHÂN NPK ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ GIỐNG MÍA ĐƯỜNG TRỒNG TRÊN ĐẤT PHÈN HẬU GIANG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 19b - Trang 145-157 - 2011
Cây mía đường từ lâu được trồng trên đất phèn và mang lại lợi nhuận cao cho nông dân ở Đồng bằng sông Cửu long. Những thông tin về ảnh hưởng của phân bón NPK trên sinh trưởng của mía đường trên đất phèn vẫn còn hạn chế. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên, gồm các nghiệm thức phân bón (NPK, PK, NK, NP) và giống mía (DLM24, ROC16, R570, QĐ11, CR74-250). Mục tiêu của đề tài là sử dụng kỹ thuật lô khuyết để đánh giá khả năng cung cấp dưỡng chất NPK và sinh trưởng của một số giống mía đường trên đất phèn Hậu Giang. Kết quả cho thấy so với không bón N, liều lượng 300 kgN/ha làm tăng năng suất mía đáng kể (39-54%). Trong khi việc bón P và K chỉ làm tăng năng suất của mía đường trong khoảng 10% so với không bón. Tuy nhiên, bón K cho thấy làm tăng độ Brix nước ép của mía đường. Giống mía DLM24 cho năng suất cao (140-145 t/ha) nhất trong số 5 giống mía được thử nghiệm ở đất phèn Hậu Giang. Cần xác định giống mía đường thích hợp với vùng đất để đạt năng suất đồng thời với độ Brix cao.
#bón NPK #kỹ thuật lô khuyết #sinh trưởng của mía đường #giống mía đường #độ Brix #đất phèn
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÓN PHÂN ĐẠM THEO BẢNG SO MÀU LÁ TRONG CHẨN ĐOÁN NHU CẦU ĐẠM CỦA CÂY MÍA DỰA TRÊN SINH TRƯỞNG MÍA TRÊN ĐẤT PHÙ SA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 33 - Trang 12-20 - 2014
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định lượng đạm và thời gian bón đạm hợp lý cho tối ưu hóa sinh trưởng, năng suất và chất lượng mía. Thí nghiệm thừa số hai nhân tố trong bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên với ba mức phân đạm và bốn phương pháp bón phân đạm được thực hiện ở huyện Cù Lao Dung và Long Mỹ. Kết quả thí nghiệm cho thấy, bón 300 kg đạm trên hecta theo so màu lá đã cho tối ưu sinh trưởng và năng suất ở Cù Lao Dung và Long Mỹ. Cụ thể, bằng phương pháp bón này đã gia tăng chiều cao, số lóng và chiều dài lóng mía nhưng không làm cải thiện độ Brix của mía ở cả hai địa điểm.
#Bảng so màu lá #năng suất mía #sinh trưởng mía #độ Brix #nhu cầu đạm của cây mía
ẢNH HƯỞNG CỦA BÓN ĐẠM, LÂN, KALI KẾT HỢP BÃ BÙN MÍA LÊN SINH TRƯỞNG, ĐỘ BRIX VÀ NĂNG SUẤT CỦA CÂY MÍA ĐƯỜNG TRÊN ĐẤT PHÙ SA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 29 - Trang 70-77 - 2013
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định ảnh hưởng của bón NPK và bón bã bùn mía (BBM) lên sinh trưởng, độ Brix, năng suất và hiệu quả nông học của cây mía trên đất phù sa. Thí nghiệm 1 gồm các nghiệm thức NPK, NP, NK và PK  kết hợp với 10 tấn/ha bã bùn mía, và thí nghiệm 2 gồm 2 nghiệm thức NPK-BBM và NPK-KBBM được bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên trên đất phù sa ở Cù Lao Dung ? Sóc Trăng và Long Mỹ - Hậu Giang. Kết quả thí nghiệm cho thấy bón đạm giúp gia tăng chiều cao cây mía và đường kính thân cây mía. Hiệu quả nông học của N, P, K được ghi nhận là đạm > lân > kali. Trên đất phù sa Sóc Trăng, hiệu quả nông học đạt được là 227 kg mía/kgN; 186 kg mía/kg P2O5 và 78 kg mía/kg K2O. Trong khi hiệu quả nông học trên đất phù sa ở Long Mỹ là 160 kg mía/kgN, 107 kg mía/kg P2O5 và 48 kg mía/kg K2O. Bón NPK có kết hợp bón bã bùn mía đưa đến năng suất mía đạt 159 - 179 tấn/ha, với mức tăng năng suất mía đường của dưỡng chất của N, P và K được ghi nhận theo thứ tự là 48,14-68,22; 13,42-23,31 và 9,75-15,70 tấn mía/ha. Hiệu quả của bón bã bùn mía giúp gia tăng chiều cao cây mía và năng suất mía trên đất phù sa ở hai địa điểm nhưng chỉ tăng đường kính cây ở Cù Lao Dung và tăng độ brix mía đường ở Long Mỹ.
#Sinh trưởng mía #năng suất mía #hiệu quả nông học mía đường #đất phù sa
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIỐNG NHO LÀM NGUYÊN LIỆU CHẾ BIẾN RƯỢU VANG TRẮNG TẠI NINH THUẬN: STUDY ON SOME VARIETIES GRAPES PROCESSING WHITE WINE IN NINH THUAN PROVINCE
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 4 Số 1 - Trang 1746-1754 - 2020
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm chọn lọc giống nho rượu có tiềm năng năng suất cao, phẩm chất tốt làm nguyên liệu chế biến rượu vang trắng trong giai đoạn hiện nay. Kết quả đánh giá, so sánh các giống nho chế biến rượu trong vườn tập đoàn giống nho của Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố; đồng thời, khảo nghiệm VCU các giống nho chế biến rượu vang trắng có triển vọng được bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD) với 3 lần nhắc lại trên 5 giống nho: NH02-04, NH02-37, NH02-66, NH02-86, NH02-144 và giống đối chứng NH02-90. Kết quả khảo nghiệm đã chọn được giống NH02-37 thích nghi với điều kiện canh tác tại Ninh Thuận, có thời gian sinh trưởng khoảng 108 ngày trong vụ Hè Thu và 114 ngày trong vụ Đông Xuân, đạt năng suất từ 12-15 tấn/ha/vụ, chống chịu khá với một số đối tượng sâu bệnh hại. Giống nho NH02-37 có chùm quả to trung bình, đóng chặt, quả không bị rụng khi chín; quả nhỏ, khi chín quả có màu xanh vàng, dịch quả màu trắng, có độ Brix cao (trên 16,0%), màu dịch quả đẹp, mùi thơm, chất lượng phù hợp cho sản xuất rượu vang trắng. Từ khóa: Độ Brix, giống NH02-37, Rượu vang trắng ABSTRACT This study was conducted to select grape varieties with high yield potential and good quality as raw materials for processing white wine in the current period. Results of evaluation and comparison of wine-processed grape varieties in the vineyard group of Nha Ho Research Institute for Cotton and Agricultural Development. At the same time, VCU testing experiment of some prospective white winegrape varieties were arranged in completely random blocks (RCBD), with 3 replications on 5 grape varieties: NH02-04, NH02-37, NH02-66, NH02-86, NH02-144 and control variety NH02-90. The research results showed that the NH02-37 variety has been selected with good adaption to farming conditions in Ninh Thuan with its growth duration of about 108 days in the Summer-Autumn crop and 114 days in the Winter- Spring, yielding from 12 to 15 tons/ha/crop, fairly resistant to  some pests and diseases. The NH02-37 grape variety doesn’t fall off until it ripens whose fruits are greenish, yellow and white, having large medium sized bunch of fruits and tightly closed. Furthermore, it keeps high Brix (over 16%), beautiful fruit color, aroma, suitable quality for white wine processing. Keywords: Brix, NH02-37 grape variety, White wine
#Brix #NH02-37 grape variety #White wine #giống NH02-37 #Rượu vang trắng #Độ Brix
Comparative, double-blind, controlled study of intra-articular hyaluronic acid (Hyalubrix®) injections versus local anesthetic in osteoarthritis of the hip
Arthritis Research & Therapy - Tập 11 - Trang 1-8 - 2009
Comparison of intra-articular bacterial-derived hyaluronic acid (Hyalubrix®) (HA) with local analgesia (mepivacaine) for osteoarthritis (OA) of the hip. A pilot prospective, double-blind, 6-month randomized trial of 42 patients with hip OA. HA or mepivacaine was administered twice (once a month) under ultrasound guidance. Efficacy measurements included the Lequesne's algofunctional index, a visual analog scale for pain, concomitant use of analgesia, patient and physician global measurement, and safety. Patients in the HA group exhibited a significantly reduced Lequesne's algofunctional index 3 and 6 months after treatment (P < 0.001) and significantly reduced visual analog scale pain scores 3 and 6 months after treatment (P < 0.05) compared with the local anesthetic group. All primary and secondary measures were significantly improved versus baseline, but other than the above were not different from each other at 3 or 6 months. Adverse effects were minimal. This comparative study suggests a beneficial effect and safety of intra-articular HA in the management of hip OA. ISRCTN39397064.
Đánh giá khả năng kết hợp của một số dòng cà chua bi thế hệ F8
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 03 năm 2022, nhằm cung cấp giống cà chua bi mới cho TP.HCM và các vùng lân cận với nguồn nguyên liệu được thu thập từ các giống F1 nhập nội, các dòng được làm thuần bằng cách thụ phấn cưỡng bức [1] qua các vụ. Các dòng ưu tú được lọc đến đời F8 (khác biệt về kiểu hình, trọng lượng quả, màu sắc quả, độ brix) được dùng để lai tạo bằng phương pháp dialen. Đánh giá khả năng kết hợp của 10 tổ hợp lai từ 5 dòng (TN133, TN135, TN132, TN30 và TN47-188) về năng suất và phẩm chất. Kết quả đánh giá khả năng kết hợp (KNKH) về năng suất và độ ngọt của 5 dòng được đánh giá thông qua 10 tổ hợp lai luân giao cho thấy: dòng TN47-188 đạt giá trị KNKH chung cao nhất về năng suất (Ĝi = 590.317) và tính trạng độ brix (Ĝi = 0.738). Về khả năng kết hợp riêng, THL TN47-188/TN133 và TN132/TN135 có KNKH riêng tốt (Ŝij = 603.165 và 449.035) về tính trạng năng suất; về tổng số chất rắn hòa tan (TSS/độ brix) trong lúc dòng TN47-188 có KNKH riêng tốt với dòng TN133 (Ŝij =0.506) và dòng TN132 có KNKH riêng tốt với dòng TN135 (Ŝij = 0.394). Năng suất của 10 tổ hợp lai biến động trong khoảng 33.01 – 104.22 tấn/ha; độ ngọt từ 6.5 – 8.6%. Trong đó các tổ hợp lai NT04, NT07, NT10 cho năng suất và độ brix cao hơn giống đối chứng (HT144) ở mức tin cậy 95%.
#cà chua bi #độ brix #khả năng kết hợp #năng suất #tổ hợp lai
Potencial Irritativo do Lipiodoluf e Hexabrix 320 utilizados em Sialografia
Revista Portuguesa de Estomatologia, Medicina Dentária e Cirurgia Maxilofacial - Tập 48 - Trang 95-101 - 2007
Tổng số: 11   
  • 1
  • 2